Bài làm

Xã hội phong kiến xưa đầy rẫy những bất công, hình ảnh người phụ nữ xuất hiện luôn gắn liền với những đau khổ và bất hạnh. Dù phẩm chất cao quý, tốt đẹp đến đâu thì số phận của họ vẫn đầy rẫy những bi kịch. Một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc đời đầy những đau thương, bất hạnh của họ chính là những bi kịch do chiến tranh phong kiến phi nghĩa gây ra. Trích đoạn “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” trích trong “Chinh phụ ngâm” của tác giả Đặng Trần Côn là tác phẩm tiêu biểu thể hiện rõ điều này. Qua những câu thơ chất chứa tâm trạng và dòng độc thoại nội tâm nhân vật, thi phẩm đã làm nổi bật nỗi lẻ loi cô đơn cùng những nhớ mong, và cả những khao khát hạnh phúc của người chinh phụ trong những tháng ngày xa cách và mong chờ người chinh phụ trở về.

Balzac đã từng khẳng định: “Nhà văn là người thư ký trung thành nhất của mọi thời đại”. Đặng Trần Côn sống trong thời kì mà chiến tranh các tập đoàn phong kiến diễn ra liên miên và phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra khắp nơi, nhà nhà sống trong cảnh loạn lạc, khói lửa, đâu đâu cũng thấy cảnh lầm than, tang tóc. Xuất phát từ yếu tố thời đại đã đem đến cho ông một cảm hứng sáng tác mới về chiến tranh, bằng cảm hứng nhân đạo của mình Đặng Trần Côn đã gieo ngòi bút của mình hướng đến số phận, nỗi đau của những người phụ nữ trong chiến tranh thể hiện sự căm hờn về quyền được sống, mưu cầu hạnh phúc của họ. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” được trích từ câu 193 - 220 trong “Chinh phụ ngâm” Sau khi tiễn chồng ra trận, người chinh phụ trở về với nỗi xót xa, lo lắng cho chồng, khổ đau bởi tình cảnh cô đơn, lẻ loi của mình. Tác phẩm đã thể hiện khát vọng hạnh phúc, mong ước lứa đôi gắn kết ẩn sau tâm trạng cô đơn, nhớ nhung của người chinh phụ.

Mở đầu đoạn trích là bốn câu thơ song thất lục bát làm cho người đọc phải suy ngẫm, như thoang thoảng đâu đây nét buồn mang mác, như nỗi lòng lo âu, sầu muộn của người phụ nữ ngày ngày trông ngóng tin chồng nơi chiến trận, tác giả đã khắc họa bức chân dung tâm trạng của người chinh phụ trong tình cảnh cô đơn, lẻ loi, ngày qua ngày mong ngóng tin chồng:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen

Ngoài rèm thước chẳng mách tin

Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”

Giữa một không gian tịch mịch “hiên vắng” và “rèm thưa”, hình ảnh người chinh phụ hiện lên lại càng thể hiện nỗi cô đơn. Mới ngày nào vợ chồng còn sánh bước bên nhau, yêu thương sâu đậm mà nay trong căn phòng, ngoài hiên nhà chỉ còn bóng dáng lẻ loi của người vợ bên trong bức rèm nhìn ra xa xăm, nàng đi đi lại lại một mình trong căn phòng ấy là những bước chân “xăm xăm” như gieo vào lòng người đọc những thanh âm của sự lẻ loi cô độc. Nàng hết buông rèm xuống rồi lại kéo rèm lên chỉ để hướng về nơi biên ải xa xôi, để mong ngóng chút tin tức của chinh phu nhưng cuối cùng chỉ là sự mong ngóng trong vô vọng. Nhịp thơ chậm lại, những hành động nàng đang lặp đi lặp lại một cách vô thức bởi tâm trí nàng giờ đây đang dành trọn cho người chồng nơi chiến trường đầy hiểm nguy. Việc miêu tả như vậy đã lột tả được tâm tư trĩu nặng và cảm giác bế tắc không yên của người chinh phụ. Đêm đêm, nàng vẫn một mình bên ngọn đèn, thế nhưng, đèn dẫu sao vẫn còn ngọn lửa tỏa ánh sáng ấm áp, còn nàng, lòng của nàng lại lạnh lẽo, mỏi mòn chờ người thương. Liệu ánh đèn ấm áp kia có hiểu:

“Khắc giờ đằng đẵng như niên

Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa

Nếu ngọn đèn không tắt xuất hiện cùng với người phụ nữ trong ca dao gợi lên nỗi thớ thương:

“Đèn thương ai mà đèn không tắt”

 

ĐỌC THÊM NGỮ VĂN 10 | PHÂN TÍCH 12 CÂU THƠ ĐẦU ĐOẠN TRÍCH TRAO DUYÊN

 

Thì hình ảnh ẩn dụ ngọn đèn của người chinh phụ soi bóng trong đêm lại là sự hiện diện của lẻ loi, đơn chiếc, trống trải. Hình ảnh hoa đèn và bóng người như phản chiếu vào nhau để diễn tả nỗi cô đơn đến héo úa canh dài, đến hao mòn cả thể chất. Dường như nỗi niềm ấy đã vo tròn, nén chặt đè nặng trong lòng chinh phụ, trở thành nỗi bi thiết không thể nói lên lời, là nỗi “buồn rầu” đến não nề, đến thương cảm. Bức chân dung người phụ nữ ấy không chỉ gợi lên qua những bước chân, động tác, cử chỉ, qua gương mặt buồn rầu, qua dáng ngồi bất động trước ngọn đèn khuya mà còn nổi bật lên trên nền của không gian và thời gian:

“Gà eo óc gáy sương năm trống

Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”

Hình ảnh “bóng hòe phất phơ” suốt ngày dài cùng biện pháp lấy động tả tĩnh với sự xuất hiện âm thanh “tiếng gà eo óc” đêm thâu như tô đậm thêm nỗi cô đơn, triền miên của nhân vật trữ tình. Tiếng gà eo óc báo hiệu canh năm: người vợ trẻ xa chồng đã thao thức suốt cả đêm, Bóng cây hoè ngoài sân, trong vườn ngắn rồi lại dài, dài rồi lại ngắn. Thời gian của xa cách và nhớ thương - thời gian tâm trạng - một khắc, một giờ dài như một năm. Tác giả sử dụng biện pháp so sánh: như niên, tựa miền biển xa để cụ thể hóa mối sầu dằng dặc. Từ láy “phất phơ” đã biểu đạt một cách tinh tế dáng điệu của người chinh phụ, tâm trạng của một người vợ ngóng chờ người chồng. Tâm trạng của nhân vật trữ tình như đang thấm đẫm, lan tỏa cả trong thời gian và xuyên suốt cả thời gian. Tác giả đã biến thời gian thành thời gian tâm lý, không gian thành không gian cảm xúc bằng bút pháp ước lệ và nghệ thuật so sánh trong hai.

Tình yêu của nàng, nỗi nhớ nhung của nàng xa thăm thẳm, tựa như đại dương mênh mông không nhìn thấy bến bờ. Và cùng với nó, thời gian chờ đời càng dài, lòng nàng lại càng “ tựa miền biển xa”.

“Hương gượng đốt hồn đà mê mải

Gương gượng soi lệ lại châu chan

Sắt cầm gượng gảy ngón đàn

Dây uyên kinh đứt phím loan ngại ngùng”

Chỉ bốn câu thơ nhưng lại có tới ba từ “ gượng”. Nàng gượng soi gương, gượng đốt hương trong căn phòng rồi lại gắng gượng gảy từng phím đàn. Thế nhưng nàng lại nhận ra, dù nàng có cố gắng làm cho mình đẹp, cố gắng đốt hương thơm cho căn phòng hay gảy nên khúc nhạc quen thuộc của nàng thì cũng không còn ai ở bên cạnh để lắng nghe nỗi lòng của nàng, thưởng thức bề ngoài xinh đẹp của nàng cùng tiếng đàn trầm bổng nữa rồi. Đó có lẽ là những điều đau khổ và tuyệt vọng nhất của người phụ nữ. Để rồi từng phím đàn không còn được mượt mà, đằm thắm như ngày xưa nữa. chỉ còn lại những” phím loan ngại ngùng” như tình yêu của đôi uyên ương đã bị xa cách ngàn khơi.