14 câu đầu trao duyên

Belinxki đã từng nói: “Bất cứ thi sĩ vĩ đại nào, sở dĩ họ vĩ đại bởi vì những đau khổ và hạnh phúc của họ bắt nguồn từ khoảng sâu thẳm của lịch sử xã hội, bởi vì họ là khí quan và đại biểu của xã hội, của thời đại và của nhân loại.” Thơ ca cũng như văn chương và các loại hình nghệ thuật khác, nếu không hút nhựa sống dạt dào ngầm chảy trong lòng cuộc sống thì nó sẽ mãi mãi là một cây non èo uột, không mang trên mình những cành cây săn chắc, những chiếc lá xanh tươi phơi phới dưới ánh mặt trời. Là nhà thơ, ngòi bút của anh phải chấm vào nghiên mực của cuộc đời thì thơ anh mới tươi màu, neo chặt trong bến tâm hồn người thưởng thức. Và hơn cả, để trở thành “thi sĩ vĩ đại” đòi hỏi anh ta có một trái tim đồng cảm với những linh hồn đơn côi quạnh quẽ, anh ta phải lắng nghe tiếng khóc khổ đau của nhân loại từ đó biến tác phẩm của anh thành tiếng nói đại diện cho những kiếp người mòn mỏi trong đời sống xã hội. Đến với nhưng vần thơ của Nguyễn Du, ông đã cất lên tiếng lòng của mình, để linh hồn của tác phẩm  Truyện Kiều Kiều mang đến những trang thơ neo đậu mãi trong chúng ta về hình tượng nàng  Kiều sắc sảo nhưng lại trải qua những đau thương chất chồng lên cuộc đời của người con gái tài sắc. Nếu Thúy Kiều đứt ruột trao duyên thì Nguyễn Du cũng đã viết nên cảnh Trao duyên bằng những lời thơ tan nát can tràng, đặc biệt qua mười bốn câu thơ đầu:

“Cậy em em có chịu lời,

Duyên này thì giữ vật này của chung.”

Trong dòng chảy văn học Việt Nam, có lẽ cái tên Nguyễn Du không còn xa lạ gì bởi ông chính là nhà thơ lớn của dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, một bậc thầy “phù thủy” về ngôn ngữ và hơn cả là một người có quan điểm tư tưởng tiến bộ bậc nhất trong xã hội phong kiến đương thời. Cuộc đời ông là những trải nghiệm cuộc sống phong trần; từ chốn quan trường xa hoa cho đến nông thôn nghèo khó, tất cả điều ấy đã giúp Nguyễn Du nắm vững ngôn ngữ nghệ thuật dân gian “thôn ca sơ học táng ma ngữ”. Nguyễn Du nói rằng mình là người “Thiên tuế trường ưu vị tử tiền” (trước khi chết còn lo mãi chuyện ngàn năm). Ông là vậy, là bi thương tột cùng, phẫn nộ lớn lao, là tưởng tượng kỳ diệu nhưng bao giờ cũng rất gần trái tim người. Nỗi đau đời lớn đó là bản thể của cốt cách ông và “không gì làm cho chúng ta bằng nỗi đau đớn” (A.Musset). Nỗi đau đớn của Nguyễn Du đã thanh lọc, nâng đỡ tất cả chúng ta. Qua đó, ông hình thành phong cách sáng tác luôn canh cánh trong lòng “khối u sầu một đời” đặc biệt là tác phẩm “Đoạn trường tân thanh”. Tác phẩm là những dòng thơ lục bát đầy tinh tế nói về cuộc đời nàng  Kiều với biết bao cay đắng, tủi hờn và có lẽ đoạn trích “Trao duyên” là một trong những phân đoạn hay nhất của tác phẩm. Chỉ với mười bốn dòng thơ đầu đoạn trích đã cho người đọc thấy bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của nàng  Kiều khiến ta không khỏi mà nhỏ lệ tiếc thương!

Đoạn trích nằm ở câu thơ 723 đến câu 756 trong phần gia biến và lưu lạc. Đây cũng chính là quãng thời gian khép lại cuộc sống êm đềm, hạnh phúc của Kiều, mở ra đoạn đời nổi lênh, phiêu bạt, đắng cay, đau khổ dằng dặc trong suốt mười lăm năm lưu lạc. Sau đêm thề nguyền, Kim Trọng phải về gấp để chịu tang chú ở Liêu Dương, cũng trong lúc ấy bọn sai nha gây nên vụ án oan sai đối với gia đình Thúy  Kiều, nàng buộc phải hy sinh mối tình với Kim Trọng, bán mình làm vợ lẻ cho Mã Giám Sinh để lấy tiền hối lộ cho chúng nhằm cứu cha và em khỏi đòn đánh tra khảo dã man. Chính vì thế mà nàng chẳng thể giữ trọn lời thề với chàng Kim một nỗi đau khôn cùng:

“Một mình nàng ngọn đèn khuya
Áo đầm giọt lệ, tóc se mái sầu”

Việc nhà đã sắp xếp xong xuôi,  Kiều ngồi trắng đêm nghĩ đến thân phận và tình yêu rồi nàng nhờ em gái là Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. Trong  Kim Vân Kiều Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Kiều trao duyên, xong mới bán mình còn trong  Truyện Kiều của Nguyễn Du thì ngược lại. Bởi lẽ đó là mọi chuyên đã rồi, nếu không bán mình thì Vân không đồng ý, vì chữ Hiếu, thấy mình không còn xứng đáng. Lúc này Kiều không còn làm chủ cuộc đời mình, thứ duy nhất Kiều có thể sắp đặt là “Trao duyên”. Trăn trở “vì ta khăng khít cho người dở dang”, những thổn thức thúc đẩy  Kiều hành động sau những đắn đo:

“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”

Từ những dòng thơ đầu đã thấy sự thông minh của  Kiều qua cách sử dụng từ ngữ đầy khéo léo. Nàng “Cậy em” chứ không phải “nhờ”, một thanh trắc với âm điệu nặng nề, gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói trước việc vô cùng tế nhị. Trong hoàn cảnh ấy, dường như Vân chính là niềm an ủi cuối cùng mà  Kiều có thể bấu víu vào để vượt qua cơn thác lũ của số phận oan nghiệt. “Cậy” không chỉ mang ý là nhờ vả nhưng bao trùm lên cả nó chính là sự tin cậy, trông cậy, hi vọng, ủy thác và cả sự phó mặc. Bên cạnh đó  Kiều còn khéo léo sử dụng từ “chịu” thay vì từ “nhận”. Bằng việc sử dụng từ trên, ta có thể thấy rõ Kiều hiểu em mình đang trong tình huống khó xử như thế nào, “chịu” là bị ép buộc, bắt buộc phải chấp nhận điều mình không mong muốn. Nó gợi lên rõ sự thiệt thòi của Thúy Vân, thế mới thấy,  Kiều đâu chỉ đơn thuần thuyết phục em mà còn đặt mình vào vị trí của Vân để hiểu được rằng Vân chẳng mấy vui vẻ, hài lòng. Điều ấy đã giúp người đọc hình dung ra một nàng  Kiều ngay trong lúc đau đớn nhất vẫn nghĩ đến nỗi đau của người khác, một nàng Kiều vị tha, sâu sắc. Phải chăng đó chính là nhân cách cao đẹp của nàng? Nguyễn Du đã chọn lọc từ ngữ chính xác, phù hợp với hoàn cảnh nhân vật. Song, không chỉ là từ ngữ, ông cũng chú trọng vào hành động của Thúy  Kiều khi dùng lễ nghi: “lạy” và “thưa”. Trong xã hội phong kiến xưa, đó là những hành động của kẻ bề dưới với người bề trên, của con cái với ông bà, cha mẹ, với tổ tiên, trời đất nhưng đây tại sao Thúy  Kiều lại lạy Thúy vân? Nàng vốn sinh ra trong một gia đình gia giáo, một xã hội coi trọng lễ nghi, rõ ràng Kiều là bề trên của Vân, cái “lạy” đó thật trái với lẽ thường tình nhưng ta lại không biết rằng nàng tinh tế đến nhường nào. Hành động ấy một lần nữa giúp ta thấu tỏ hơn về một nàng  Kiều ngay trong cơn thác lũ của cuộc đời, nàng vẫn thấu lí đạt tình, ý thức sâu sắc về hoàn cảnh của mình trong hiện tại, tình yêu vô cùng mãnh liệt, khao khát hạnh phúc thì vô biên mà thời gian yêu thương thì ngắn ngủi, chật hẹp. Sóng gió cuộc đời khủng khiếp ập tới bất cứ lúc nào. Chính ý thức đó đã khiến  Kiều phải hành động như thế. Kiều muốn tranh chấp với số mệnh bởi ngay trước đó nàng biết có biết bao người “nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương”, hiểu thấu những phi lý cuộc đời “Thề hoa chưa ráo chén vàng” chàng Kim đã ra đi, gia đình đang hạnh phúc thì cha mẹ “rường cao rút ngược dây oan”, tai họa ập tới bất ngờ, con người không thể chống đỡ nổi nên giờ đây  Kiều phải hành động để tranh chấp với thời gian, số mệnh để cứu lấy tình yêu của mình với Kim Trọng.  Kiều hiểu rằng chỉ có thành tâm, cúi mình thì mới đặt Vân vào vị trí không thể từ chối lời khẩn cầu của mình. Một câu chuyện khó nói phải mở lời một cách tế nhị. Một trách nhiệm nặng nề phải được đặt vấn đề một cách trang trọng. Kết hợp cách ngắt nhịp và giọng thơ nhẹ nhàng mà tha thiết giúp ta cảm nhận được sự nghẹn ngào, sự nấc nhẹ trong cảm xúc của nàng. Hai câu thơ mở đầu đã gợi ra một không khí thiêng liêng, trang trọng, ở đó khắc họa lên một Thúy  Kiều thông minh, khéo léo, chu toàn mà chẳng kém phần tinh tế