
Các thi nhân từ xưa đến nay đều đến với thiên nhiên để thả bầu tâm sự của mình vào đó, nếu Cao Bá Quát tìm đến thiên nhiên để bày tỏ tâm trạng chua xót bất đắc chí, Nguyễn Bỉnh Khiêm thì là để bày tỏ đạo lí cũng như quan niệm sống sâu sắc hay sau này Bác Hồ tìm thiên nhiên để bầu bạn trong những tháng ngày gian khổ,… Nhưng đối với Trương Hán Siêu, ông tìm đến thiên nhiên để thể hiện khát vọng ngao du thiên hạ đồng thời thể hiện niềm tự hào dân tộc. Mở đầu bài thơ là sự xuất hiện của nhân vật khách khiến ta không khỏi thắc mắc, nhưng thực chất đó là sự phân thân của tác giả để tạo nhân vật đối đáp trong bài phú, giúp câu chuyện thêm hấp dẫn và chân thực hơn:
“Khác có kẻ
Giương buồm giong gió chơi vơi
Lướt bể chơi trăng mải miết
……………………..
Bèn giữa dòng chừ buông chèo
Học Tử trường chừ thú tiêu dao”
Ngay từ những dòng thơ kẻ sĩ hiện lên là một tao nhân với rượu túi thơ “chơi vơi” theo cánh buồm, làm bạn với gió trăng qua mọi miền sông biển để sống hết mình với thiên nhiên, để du ngoạn thăm thú mọi cảnh đẹp xa gần. Trương Hán Siêu đã sử dụng hàng loạt những động từ mạnh “giương”, “lướt”, “chơi” cùng với đó là tính từ “chơi vơi” và “mải miết” làm nhân vật khách hoàn toàn nổi bật với tình cách phóng khoáng, mạnh mẽ và thích được đi đây, đi đó. Thú vui du ngoạn không chỉ dừng lại ở việc ngắm cảnh sắc thiên nhiên mà còn là để tiếp thu tri thức, bồi bổ tâm hồn. Bức tranh thiên nhiên hiện lên đã cho ta thấy vốn hiểu biết uyên thâm của nhân vật khách hay chính là Trương Hán Siêu khi ông liệt kê hàng loạt các điển cố khiến bức tranh ấy trở nên rộng lớn, bao la vô tận: “Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt”… Sáng thì đi đến sông Nguyên, sông Tương, chiều thì thăm Vũ Huyệt, dường như cả Trung Hoa bạt ngàn đều được nhân vật khách nắm trong lòng bàn tay ngay cả “Đầm Vân Mộng” rộng lớn đến thế thì khách cũng cho rằng: “chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều”. Nhân vật khách đã đi đến nhiều nơi, biết đến nhiều chỗ nhưng những nơi ấy thực chất chỉ mang tính khái quát, ước lệ, ngụ ý nói rằng ông học Tử Trường – Tư Mã Thiên – một nhà sử học nổi tiếng của Trung Quốc từng chu du khắp Trung Hoa rộng lớn để sau này viết bộ sử kí bất hủ một thời. Dù chỉ là tưởng tượng nhưng cảnh vật hiện lên chẳng kém phần hùng vĩ, qua đó cho hậu thế thấy trong ông là cả một tâm hồn yêu thiên nhiên, một khao khát chiếm lĩnh tri thức của nhân loại: “Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.”
Cuộc viễn du mở đầu bài phú khiến ta không khỏi choáng ngợp trước cảnh sắc thiên nhiên Trung Hoa, nhưng dường như đó chỉ là cái phông, cái nền, là những nốt nhạc dạo đầu trước khi bước vào thế giới hùng vĩ của dòng sông Bạch Đằng gợi lại cho Trương Hán Siêu biết bao xúc cảm về một thời đã qua, bởi lẽ “Niềm vui của nhà văn chân chính là người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp”:
“Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Chiều
Đến sông Bạch Đằng thuyền bơi một chiều
……………………………………
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.”
Cảnh sắc thiên nhiên của dòng sông Bạch Đằng được nhân vật khách miêu tả với nhiều sắc thái khác nhau từ tự hào, phấn khởi cho đến buồn thương, tiếc nuối. Dòng sông lịch sử hiện lên với những con thuyền nối đuôi nhau trôi bập bềnh trên sông: “Thướt tha đuôi trĩ một màu”, với những con sóng lớn trùng trùng điệp điệp gối lên nhau: “Bát ngát sóng kình”, với bầu trời và dòng nước cùng một sắc xanh hài hòa mát mẻ,… Dòng sông vừa mang vẻ đẹp hùng vĩ, vừa mang vẻ đẹp dịu dàng, huyền ảo, thơ mộng. Tiết trời giờ đây đã chuyển sang tháng thứ ba của mùa thu, cảnh vật lại càng làm lòng người thêm xao xuyến, thêm phơi phới tự hào khi đứng trước một dòng sông lịch sử có nét đẹp mĩ lệ, nên thơ khác hẳn với cảnh sắc đượm buồn tròn thơ của Tản Đà sau này:
“Gió thu hiu hắt
Sương thu lạnh
Trăng thu bạch
Khói thu xây thành.”
Nhưng rồi khi đứng trước dòng sông ấy nó làm con người ta không khỏi khắc khoải về những hoài niệm, về những chuỗi ngày đau thương một thời khiến cảnh sắc đẹp đến thế cũng nhuốm màu nỗi buồn, chẳng thể ngăn được nỗi thương cảm đang trào dâng trong mình, nói như Nguyễn Du:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Hay như Đặng Trần Côn:
“Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun”
Trải qua biết bao cuộc chiến đau thương, đọng lại trên dòng sông bây giờ chỉ toàn gươm giáo, xương cốt của lũ giặc phương Bắc và của cả những người anh hùng quân ta đã ngã xuống. Các từ láy “san sát”, “đìu hiu” đã khiến con sông trở nên hoang vắng, ảm đạm, thê lương đến đau lòng. Vết tích lịch sử còn đấy, thời gian có ăn mòn vạn vật tàn khốc đến đâu cũng chẳng thể xóa nhòa đi đau thương, mất mát. Ý thơ của Trương Hán Siêu làm ta nhớ đến vài câu thơ trong bài “Cửa biển Bạch Đằng” của Nguyễn Trãi:
“Ngạc chặt kim băm non lởm chởm
Giáo chìm gươm gãy bãi tầng tầng
Dòng trôi tìm bóng dạ bâng khuâng.”
Khung cảnh đìu hìu ấy khiến nhân vật khách không khỏi tiếc thương để rồi “đứng lặng giờ lâu”, dường như đó là sự sững lại trong một động thái trữ tình đầy nhân bản. Ồng mặc niệm cho những người đã khuất, cho những anh hùng của Đại Việt ta và cho cả những người lính Trung Hoa linh hồn còn vất vưởng nơi đất khách quê người. Phải chăng đó là tâm hồn lớn lao của một con người nhân đạo có thế giới nội tâm sâu lắng, một con người không chỉ yêu thiên nhiên, thương, dân tộc mà còn đau xót cho cả những kẻ thù – những con người vô tình bị bắt ép, vô tình bị đưa đẩy vào cuộc chiến tranh phi nghĩa đầy đau thương…
Có những trang thơ đọc xong rồi gấp lại sẽ khiến ta quên ngay nhưng có những vần thơ mặc cho lớp bụi của thời gian vẫn sống mãi cùng bạn đọc và có lẽ “Phú sông Bạch Đằng” là một bài thơ như vậy. Những câu thơ vang lên tựa âm hưởng của khúc anh hùng ca đang dâng lên dào dạt như những lớp sóng của dòng sông Bạch Đằng ngàn năm còn vỗ khiến lớp lớp thế hệ sau không khỏi tự hào. Đồng thờ đoạn trích góp phần thể hiện đỉnh cao nghệ thuật của thể phú, qua đó thấy được tài năng cũng như vẻ đẹp sâu tận tâm hồn con người Trương Hán Siêu – “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy” (Sê – khốp).
0 Nhận xét